Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo cũng như là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người và là tiếng nói khẳng định đề cao tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người. Sau đây sẽ là hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều và một số nội dung có liên quan khác.
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du
– Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
Bạn đang xem: Hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều
– Tổ tiên Nguyễn Du vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau đó di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
– Các tác phẩm chính của Nguyễn Du:
* Sáng tác bằng chữ Hán: gồm 249 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kỳ khác nhau.
– Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên): 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
– Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam): 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh quê hương ông.
– Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
=> Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông.
* Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.
Giới thiệu tác phẩm Truyện Kiều
Xem thêm : Văn bản là gì? Phân biệt các loại văn bản thường dùng trong cuộc sống
Đoạn trường tân thanh thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều , là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát, gồm 3254 câu.
Câu chuyện dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một thi sĩ thời nhà Minh, Trung Quốc.
Tác phẩm kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình để cứu gia đình. Để cứu cha và em trai khỏi tù, cô bán mình kết hôn với một người đàn ông trung niên, không biết rằng hắn ta là một kẻ buôn người, và bị ép làm kĩ nữ trong lầu xanh.
Hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều
Có nhiều giả thuyết xoay quanh hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820) (ý kiến của nhà nghiên cứu văn học Hoàng Xuân Hãn). Hoàng Xuân Hãn cho rằng, Nguyễn Du đi xứ Trung Quốc đã tiếp cận được với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Trên cơ sở đó, đã tiếp biến mà viết ra Truyện Kiều.
Có thuyết lại cho rằng ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng cuối Lê đầu Tây Sơn (ý kiến của học giả Đào Duy Anh). Học giả Đào Duy Anh căn cứ vào những ghi chép trong Đại Nam liệt truyện và đưa ra nhận định. Sách này có đoạn: “Ông giỏi thơ lại sành quốc âm, sau khi đi xứ về có Bắc hành thi tập và truyện Thúy Kiều còn lại đến ngày nay”. Đào Duy Anh phản bác: “Liệt truyện căn cứ vào khẩu truyền thiếu chính xác nên đã ghi là Bắc hành thi tập và truyện Thúy Kiều như nhân gian thường gọi chứ không ghi chính xác là Bắc hành tạp lục và Đoạn trường tân thanh đúng tên gốc của nó”.
Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Các học giả bằng việc khảo cứu tài liệu trong và ngoài nước tiếp tục truy nguyên nguồn gốc ra đời của Truyện Kiều. Dựa trên đó có thể khẳng định chắc chắn rằng Nguyễn Du có tiếp cận và tiếp biến cốt truyện tác phẩm Kim-Vân-Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Còn việc Nguyễn Du viết truyện Kiều khi nào vẫn còn chưa thấu rõ.
Phân tích nhân vật Thúy Kiều
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo, về phương diện nghệ thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn thơ giới thiệu chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.
Hai chị em Kiều mang vẻ đẹp thanh tao, trinh trắng như “mai”, như “tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toàn thiện, toàn mĩ:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng khác vời” – rất quý phái: khuôn mặt “đầy đặn” tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc.. Còn gì đẹp hơn về mái tóc, màu da của nàng? – “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả sắc đẹp Thúy Vân, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du để khẳng định Kiều là một giai nhân tuyệt thế:
Xem thêm : Châu lục nào có diện tích rộng lớn nhất thế giới?
Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn.
Dung nhan Thúy Kiều đẹp lắm “nghiêng nước nghiêng thành”. Mắt đẹp trong như sắc nước mùa thu, lông mày thanh tú xinh xắn như dáng núi mùa xuân; một vẻ đẹp đằm thắm, xanh tươi mơn mởn khiến cho “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Ngòi bút tả người của thi hào biến hóa, đa dạng: kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, thậm xứng với sự vận dụng tinh tế thi liệu cổ (nghiêng nước nghiêng thành) tạo nên những vần thơ đẹp gợi cảm. Hình bóng giai nhân được phác họa đôi ba nét chấm phá ước lệ nhưng hết sức thần tình, để lại cho người đọc bao cảm xúc, trân trọng:
Làn thu thủy, nét xuân sơn. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Hóa công như đã ưu đãi dành cho Kiều tất cả “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Thông minh bẩm sinh “tính trời”, tài hoa lỗi lạc xuất chúng: thơ tài, họa giỏi, đàn hay; môn nghệ thuật nào nàng cũng tuyệt giỏi, cũng thành “nghề”, “ăn đứt” thiên hạ:
Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi Thúy Kiều bằng một số từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi lầu bậc nghề riêng ăn đứt.
Khi tả tài sắc Thúy Kiều, thi hào không chỉ nói lên cái tuyệt vời của hiện tại mà còn hàm ý dự báo về tương lai của nàng, sắc đẹp kiều diễm “hoa ghen… liễu hờn…” với bản đàn “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác ra “lại càng não nhân” như gợi ra trong tâm hồn chúng ta một ám ảnh “định mệnh” mà nhà thơ đã khẳng định: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Gần hai thế kỉ nay, bức chân dung giai nhân này qua đoạn thơ Chị em Thúy Kiều đã để lại trong trái tim hàng triệu con người Việt Nam một sự cảm mến nồng hậu, một sự phấp phỏng lo âu đối với người con gái đầu lòng của Vương ông. Đó là tài năng đích thực của Nguyễn Du về nghệ thuật tả người.
Đức hạnh là cái gốc của con người. Thúy Kiều không chỉ có tài sắc mà còn có đức hạnh. Nàng được hưởng một nền giáo dục theo khuôn khổ của lễ giáo, của gia phong. Tuy sống trong cảnh “phong lưu rất mực hồng quần”, đã tới “tuần cập kê” nhưng nàng là một thiếu nữ có gia giáo, đức hạnh:
Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong Đoạn trường tân thanh. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ ca trác việt miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp nhất. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhất là ẩn dụ so sánh, một ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng và gợi cảm để vẽ nên bức chân dung mĩ nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Thúy Kiều mang một “lí lịch” ngoại tộc nhưng dưới ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du, nàng xuất hiện với bao phẩm chất tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Vẻ đẹp nhân văn toát lên từ hình ảnh Thúy Kiều là vẻ đẹp văn chương của đoạn thơ này.
Trên đây là nội dung bài viết Hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều, cảm ơn Quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của chúng tôi.
Nguồn: https://thegioiso.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục